Hàm ý hội thoại trong truyện cười dân gian Việt Nam
nghĩa tường minh và hàm ẩn, bài tập hàm ẩn, ngữ liệu hàm ẩn, ngữ liệu nghĩa tường minh và hàm ẩn, ngữ liệu thực hành tiếng Việt
NGUYỄN
HOÀNG YẾN (TS; Đại học Tây Bắc)
1. Hàm ý hội thoại là hàm ý được suy ra trong hội thoại gắn với việc
thực hiện nguyên tắc cộng tác (co-operative principle) được Grice (1975) nêu ra
và chi tiết hoá thành các quy tắc bậc dưới, gọi là các phương châm (maxims) hội
thoại: lượng, chất, quan hệ, cách thức. Trong truyện cười dân gian (TCDG) Việt
Nam, một hàm ý hội thoại được tạo ra có thể có quan hệ với một / một số phương
châm hội thoại. Bài viết này đề cập đến hàm ý hội thoại trong TCDG Việt Nam xét
trong quan hệ với phương châm về lượng.
Phương châm về lượng yêu cầu
phần đóng góp lượng tin của người nói phải theo tiêu chuẩn cần và đủ xét theo mục
đích của cuộc thoại mà không cung cấp lượng tin nhiều hơn và cũng không ít hơn.
Trong TCDG Việt Nam,
phương châm về lượng thường không được tuân thủ nhằm mục đích tạo ra hàm ý từ
đó sẽ gây ra tiếng cười. Sự cố ý vi phạm, không tuân thủ phương châm về lượng
này có thể diễn ra theo hai hướng:
Một là, người nói cố ý
cung cấp lượng tin ít hơn mức cần thiết (chưa đủ mức như “nó được đòi hỏi”, chi
tiết 1 trong phương châm về lượng).
Hai là, người nói cố ý
cung cấp lượng tin nhiều hơn mức cần thiết (chi tiết 2 trong phương châm về lượng).
2. Để làm sáng tỏ các đặc tính cơ bản và tác dụng của hàm ý trong việc
tạo nên tiếng cười thâm thúy, bài viết sẽ chọn một số truyện cười dân gian Việt
Nam tiêu biểu để phân tích. Kết quả phân tích hàm ý của các truyện khác còn lại
mà bài viết đã khảo sát được thể hiện trong BẢNG 2.1.
2.1. Hàm ý hội thoại
liên quan đến việc cung cấp thiếu tin
Ví dụ 1: Truyện BẨM CHÓ
CẢ
Nhà nho nọ thấy quan lại
tham nhũng, trong lòng rất khinh. Một hôm, các quan đến nhà chơi, trong số đó
có cả mấy bạn đồng song thủa trước. Ông ta bảo người nhà dọn rượu thết.
Người nhà bưng mâm lên,
ông ta đứng dậy thưa:
- Chả mấy khi rồng đến
nhà tôm, các ngài có bụng yêu nhà nho thanh bạch đến chơi, có chén rượu nhạt
xin các ngài chiếu cố cho.
Các quan cầm đũa, gắp mấy
món. Các quan ăn thấy ngon miệng, liền khề khà hỏi: đây đĩa gì, kia bát gì...
Nhà nho thong thả nói:
- Đây là chó, kia cũng
là chó, bẩm toàn chó cả.
Tình huống tạo ra hàm ý
gây cười là bữa cơm rượu một nhà nho tổ chức để thết đãi một số vị quan là
khách của mình. Câu mở đầu truyện cho biết các vị thực khách đều là những tham
quan mà nhà nho “trong lòng rất khinh”.
Trong phát ngôn của nhà
nho được chúng tôi in đậm có chứa hàm ý được tạo ra do sự vi phạm phương châm về
lượng, tức là trong phát ngôn của mình, nhà nho đã không tuân thủ chặt chẽ
phương châm về lượng “đóng góp lượng tin như nó được đòi hỏi” - ông chỉ nói tắt:
Đây là chó, kia cũng là chó, bẩm toàn chó cả.
Khi nghe phát ngôn này,
người ta sẽ không rõ các đại từ chỉ xuất “đây”, “kia” có ý nghĩa chỉ xuất nơi
chốn, định vị trí trong không gian của vật (các đĩa đựng thức ăn / món ăn) hay
là “người” (các quan khách đang ngồi). Mặt khác, do nói tắt nên ông cũng không
nói rõ chó ở đây là “thịt chó” mà các quan đang ăn hay là “con chó” (ám chỉ các
quan)?
Chính lối nói lấp lửng do
cung cấp thiếu tin này đã khiến người nghe có thể hiểu câu nói của nhà nho theo
cách 1 (toàn là thịt chó) và 2 (toàn là đồ chó). Nhờ cách hiểu thứ nhất mà nhà
nho đã tránh được sự quở phạt do đã sỉ nhục các quan “toàn là đồ chó cả”!!
Nhưng liệu có phải là nhà
nho cố tình nói tắt, vi phạm phương châm về lượng để gây hàm ý tạo ra tiếng cười
như vậy hay không? Hay đó chỉ là do nhà phân tích diễn ngôn bịa đặt ra như vậy?
Một nguyên tắc của phân
tích diễn ngôn phê bình là “nói có sách, mách có chứng”! Muốn trả lời câu hỏi vừa
nêu, chúng ta phải hiểu rõ thâm tâm của nhà nho, “trong bụng” ông ta nghĩ gì?
Chính câu đầu tiên của truyện đã chứa câu trả lời bởi vì trong đó có mấy tiếng
cuối câu: trong lòng (nhà nho) rất khinh! Mấy tiếng này là cái nhân trong chủ đề
của câu chuyện, nó chứng tỏ nhà nho cố ý nói ra câu chứa hàm ý đó. Đồng thời
nhà nho cũng dư biết rằng việc dùng hàm ý của mình sẽ thành công, các quan
khách ắt dễ dàng giải đoán được hàm ý ấy.
Hàm ý trong câu kết truyện
đã được tạo ra một cách bất ngờ. Các quan khách thì bàng hoàng, chết lặng khi bị
“mắng trực diện”, còn người đọc thì được trận cười sảng khoái.
Ví dụ 2: Truyện BỨC THƯ LẠ
Tình huống của câu chuyện
như sau: người lính gửi về cho vợ mình một bức thư gồm toàn hình vẽ. Người bạn
chuyển thư không hiểu ý nghĩa của các hình vẽ là kê số tiền gửi nên đã lấy bớt
tiền khiến người vợ lính phải đến cửa quan. Do việc kiện tụng mà có cuộc thoại
giữa quan và vợ người lính. Truyện viết như sau:
[…]
Quan cho phải, bắt anh
kia trả số tiền, nhưng ngài còn hỏi chị kia:
- Thế còn hai con dê và
cái chũm choẹ kia là ý thế nào?
Chị ta sượng sùng không
nói. Quan hỏi mãi mới thưa:
- Đấy là nhà con vẽ
đùa.
- Đùa thế là có ý gì,
phải nói ra.
- Bẩm quan lớn, hai con dê và cái chũm chọe là nhà con muốn hẹn con rằng, đến tết Trùng dương thì nhà con sẽ về thăm nhà... đấy ạ!
Trước hết cần chú ý điều
mà chị vợ lính ngượng không nói ra được (“chị ta sượng sùng không nói”), nhưng
do quan bắt chị “phải nói ra” nên chị mới buộc phải thưa với quan. Tuy nhiên,
khi bị buộc phải trả lời, chị đã tế nhị thưa trước rằng đây chỉ là “chuyện
đùa”, cũng có nghĩa là không phải việc có thể nói ở “công đường” - chuyện riêng
tư kín đáo của vợ chồng chốn buồng the. Do vậy người vợ lính đã giải thích bằng
một câu lấp lửng thiếu thông tin (vi phạm phương châm về chất - cần phải nói rõ
ràng, tránh mập mờ; chỗ thiếu tin được người viết ghi bằng dấu ba chấm, và
chính đó là chỗ chứa hàm ý).
Khi người vợ lính giải
thích hai con dê là “tết trùng dương” thì quan hiểu ngay mà không phải suy đoán
hàm ý, còn cái chũm choẹ thì chỉ được người vợ giải thích là nhà con sẽ về thăm
nhà... đấy ạ! Chính chỗ ngập ngừng trên lời nói đã giúp quan suy luận và hiểu
ra điều mà chị ta khó nói.
Như vậy, người vợ lính đã
sử dụng thành công hàm ý trong khi trả lời một vấn đề hết sức “tế nhị”, vốn được
coi là kiêng kị đối với quan trên.
2.2. Hàm ý hội thoại
liên quan đến việc cung cấp thừa thông tin
Ví dụ 3: Truyện NÓI CÓ ĐẦU CÓ ĐUÔI
Một lão nhà giàu có anh
đầy tớ tính bộp chộp, thấy gì nói ấy, gặp đâu nói đó, chẳng có đầu có đuôi gì cả.
Lão mới gọi anh ta bảo:
- [...]. Từ rày nói cái
gì thì phải nói cho có đầu có đuôi nghe không?
Anh đầy tớ vâng vâng, dạ
dạ.
Một hôm lão mặc quần áo
sắp sửa đi chơi, đang ngồi hút thuốc thì thấy anh đầy tớ đứng chắp tay trịnh trọng
nói:
- Thưa ông, con tằm nó
nhả tơ, người ta mang tơ bán cho người Tàu, người Tàu đem dệt thành the rồi bán
sang ta. Ông mua the về may thành áo. Hôm nay ông mặc áo, ông hút thuốc. Tàn
thuốc nó rơi vào áo ông, và áo ông đang cháy.
Lão giật mình nhìn xuống
thì áo đã cháy to bằng bàn tay rồi.
Tình huống trong truyện là
câu chuyện giữa một lão nhà giàu và anh đầy tớ tính hay “bộp chộp, thấy gì nói ấy,
gặp đâu nói đó”. Anh ta nói “có đầu có đuôi” (như lời ông chủ dặn) về việc áo
ông đang cháy. Tình huống này tạo ra hàm ý gây cười.
Trước hết, người nghe (lão
nhà giàu) và người đọc dễ nhận ra trong câu nói được chúng tôi in đậm của anh đầy
tớ có chứa hàm ý và hàm ý này được tạo ra do không tuân thủ phương châm về lượng
(và phương châm cách thức). Tức là trong câu nói của mình tại thời điểm nói anh
ta đã nói những điều không cần thiết như đòi hỏi của cuộc thoại - nói thừa
thông tin, nói dài dòng.
Truyện cho thấy lời người
đầy tớ không đáp ứng được phương châm về lượng do bị phương châm về cách thức
(điểm 3) khống chế, bởi người đầy tớ không thể không vâng lời ông chủ “nói cho
có đầu có đuôi”. Nói cách khác, anh đầy tớ nhận thấy rằng mình không thể cùng một
lúc tuân thủ được cả phương châm về lượng lẫn phương châm về cách thức trong lời
nói của anh ta, tức là anh phải chấp nhận sự “đụng độ” cần thiết của hai phương
châm do sự chi phối của tình huống “tớ phải vâng lời chủ”.
Ví dụ 4: Truyện MÁNH KHOÉ
Tình huống tạo ra hàm ý
gây cười trong truyện cười này khá lí thú, gắn với việc moi tin từ tiền giả định
chân thực. Tức là người nói sử dụng tiền giả định chân thực (vốn không có giá
trị thông báo), nhưng đối với người nghe nó lại là cái chứa nội dung thông báo
cần tìm, mặc dù người nói không có ý định đưa ra thông báo đó. Truyện viêt như
sau:
Hai thầy lang ngồi nói
chuyện với nhau. Thầy nọ hỏi thầy kia:
- Bác đi thăm bệnh, sao
bất cứ bệnh nào bác cũng hỏi bệnh nhân thường ăn những gì, như vậy là nghĩa làm
sao?
Thầy kia cười đáp:
- Có gì đâu, chẳng qua
hỏi xem họ ăn uống có sang trọng hay không để sau định tiền thuốc nhiều hay ít
cho nó dễ!
Rõ ràng sự giàu có là điều
kiện để có thức ăn thức uống sang trọng (một suy lí điều kiện) và nội dung về sự
giàu có đó là ‘tiền giả định tồn tại' cho câu có chứa nội dung “ăn uống các thức
sang trọng” mà bệnh nhân sẽ kể ra với thầy lang một cách tự nguyện, không hề
nghi ngờ rằng mình đã bị lợi dụng. Nếu không có một ‘tiền giả định tồn tại’
đúng như vậy, câu trả lời sẽ không có được cái nội dung chân thực về thức ăn thức
uống
sang trọng. Vậy là ông thầy
lang “giàu kinh nghiệm” kia đã khai thác thông tin về tài sản của bệnh nhân qua
tiền giả định một cách điệu nghệ: bởi lẽ người bệnh không thể không trả lời một
cách chân thực, cũng tức là sử dụng tiền giả định chân thực trong câu nói của
mình, còn thầy lang thì khai thác được tin từ tiền giả định đó nhằm trục lợi
cho chính mình, chứ không nhằm đên một “y đức” nào, mà thật kín cạnh!
Xét về phương châm hội thoại,
cách người nói 2 tìm kiêm tiền giả định trong lời nói của người nói 1 như thê
này là người nói 2 không gắn với phương châm về lượng: người nói đã nói ra lượng
tin nhiều hơn cần thiêt.
2.3. Kết quả nhận diện hàm ý xét theo phương châm
lượng
Kêt quả phân tích các truyện
về phương diện hàm ý xét theo phương châm về lượng được tổng kêt trong bảng dưới
đây.
HÀM Ý HỘI
THOẠI LIÊN QUAN ĐẾN PHƯƠNG CHÂM LƯỢNG
STT |
Số thứ tự của truyện* |
Đầu đề truyện |
Thiếu tin |
Thừa tin |
Chú thích |
1 |
I - 5 |
Bẩm chó cả |
+ |
|
** Q chiếu |
2 |
I -22 |
Bức thư lạ |
+ |
|
** Thức |
3 |
I - 27 |
Rắn của con |
|
+ |
** Thức |
4 |
I - 44 |
Nói có đầu có đuôi |
|
+ |
|
5 |
I - 45 |
Tại ông không hỏi |
|
+ |
** Lịch sự |
6 |
I - 107 |
Mánh khóe |
+ |
|
|
7 |
I - 113 |
Phù thủy sợ ma |
+ |
|
** Q chiếu |
8 |
I - 160 |
Kêu trước lên là vừa |
|
+ |
** Chất |
9 |
I - 163 |
Khoe của |
|
+ |
|
10 |
I - 175 |
Không phải thịt lợn sề |
|
+ |
** Lịch sự |
11 |
I - 196 |
Ăn cỗ với ai |
|
+ |
|
Chú thích: * Số thứ tự của truyện trong sách (chữ số
La Mã chỉ mục, chữ số Ả Rập chỉ số thứ tự của truyện trong mục). ** Đọc là “còn có”.
2.4. Mô hình của hàm ý
xét trong quan
Căn cứ vào sự cố ý không
tuân thủ hệ với phương châm lượng phương châm lượng của người nói và sự cộng
tác của người nghe đối với việc hiểu nội dung ngầm ẩn từ phát ngôn của người
nói trong ngữ cảnh tình huống nhất định, mô hình giao tiếp có hàm ý xét trong
quan hệ với phương châm lượng như sau:
A (người nói) tạo phát
ngôn X trong tình huống Z ngầm ẩn nội dung Y
X thừa / thiếu lượng tin
(xét trong mục đích của lần trao đổi đó)
B (người nghe) tiếp nhận X
hiểu / giải đoán đúng Y trong Z.
3. Tóm lại, hàm ý hội thoại xuất hiện trong các phát ngôn nhưng không
phải hàm ý nào cũng được tiếp nhận trong hoạt động giao tiếp. Điều quan trọng ở
đây là người nghe có chấp nhận hợp tác với người nói hay không. Trong TCDG Việt
Nam, mỗi truyện có hàm ý được sử dụng thành công đều liên quan đến nguyên tắc cộng
tác của Grice.
Trong khi nói ra lời, người
nói tự nhiên (không ý thức một cách rõ ràng về mặt lí thuyết) là có tuân theo
hoặc không tuân theo một phương châm nào đó, để thực hiện cái ý chủ định trong
việc đưa ra nội dung lời nói đó của mình. Khi người nói không tuân theo một
phương châm nào đó trong lời được nói ra là người đó chủ định tạo ra một hàm ý,
như trường hợp không tuân theo phương châm về lượng (cung cấp lượng tin ít hơn
/ nhiều hơn mức cần thiết) trong các ví dụ trên kia. Việc chủ định tạo ra một
hàm ý bằng cách đó cũng có khả năng gây cười trong Truyện cười dân gian Việt
Nam.
Tuy nhiên cũng có trường hợp
hàm ý được tạo ra bởi người nói đang cần thiết phải chấp nhận sự va chạm (sự đụng
độ) giữa một phương châm này với một phương châm khác. Chẳng hạn, khi một người
nói (chấp nhận cộng tác) đưa ra một số lượng tin nhiều
hơn cần thiết, thì đó có
thể là trường hợp có sự đụng độ giữa phương châm về lượng (có nội dung “không
làm cho phần đóng góp của bạn có chứa tin nhiều hơn đang được đòi hỏi”) với một
phương châm nào đó (ví dụ 3).
Do đặc điểm cấu trúc của
truyện cười, hộ i thoại thường xuất hiện ở phần tình huống kết thúc truyện và
giữ vai trò quan trọng trong việc tạo nên hàm ý để gây ra tiếng cười. Chính hàm
ý là thông tin chứa đựng mâu thuẫn kịch tính giữa nội dung và hình thức vốn là
bản chất của cái hài khiến người đọc phải bật lên tiếng cười. Như vậy tiếng cười
được tạo ra sâu sắc, bài học luân lí mặc nhiên cũng được rút ra một cách hàm ẩn.
TÀI LIỆU
THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban, (2009),
Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
2. George Yule, (1997), Dụng
học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, (người dịch: Trúc Thanh, Hồng Nhâm, Ái
Nguyên).
3. Đặng Thị Hảo Tâm,
(2003), Cơ sở lí giải nghĩa hàm ẩn của các hành vi ngôn ngữ gián tiếp trong hội
thoại, Hà Nội, Luận án Tiến sĩ.
4. Nguyễn Đức Tồn, (2008),
Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
5. Đỗ Bình Trị, (1999), Những
đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Nguyễn Như Ý (chủ
biên), (1998), Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
DẪN LIỆU
7. Trương Chính - Phong
Châu (sưu tầm và tuyển chọn), (2004), Tiếng cười dân gian Việt Nam, NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
(Ban Biên tập nhận bài ngày
17-01-2014)